Vi phạm chế độ một vợ, một chồng và hình thức xử lý
Vậy pháp luật quy định hình thức xử lý như thế nào để bảo vệ chế độ hôn nhân một…
Bộ luật tố tụng dân sự 2015
Theo quy định pháp luật tố tụng Dân sự, trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán sẽ phải tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải.
Như vậy, hòa giải là một trong những nhiệm vụ mà Thẩm phán phải tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án.
Theo quy định, không phải vụ án nào cũng phải tiến hành hòa giải trước khi xét xử. Bởi có những vụ án dân sự thuộc trường hợp không được hòa giải và có những trường hợp vụ án không hòa giải được.
Những vụ án dân sự không được hòa giải theo Điều 206 BLTTDS bao gồm:
Như vậy, đối với những vụ án yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước và vụ án phát sinh từ sao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội thì Thẩm phán sẽ không tiến hành thủ tục hòa giải.
Ngoài ra, còn có những vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 BLTTDS, bao gồm:
Mặt khác, theo quy định khoản 1 Điều 205 BLTTDS thì đối với những vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì Tòa án cũng không tiến hành hòa giải theo quy định khoản 1 Điều 205 BLTTDS.
Theo đó, không phải tất cả vụ án dân sự đều phải hòa giải trước khi xét xử.
Trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án, Thẩm phán sẽ tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dựa trên những nguyên tắc sau:
Thành phần tham gia phiên hòa giải theo quy định tại Điều 209 BLTTDS bao gồm:
Thứ nhất: Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Thẩm phán sẽ tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Trước khi tiến hành phiên họp, Thẩm phán sẽ phải thông báo cho đương sự, đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung phiên họp.
Thứ hai: Mở phiên hòa giải.
Trước khi tiến hành, Thư ký Tòa án báo cáo Thẩm phán về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp đã được Tòa án thông báo. Thẩm phán chủ trì phiên họp kiểm tra lại sự có mặt và căn cước của những người tham gia, phổ biến cho các đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật này.
Thủ tục tiến hành hòa giải được thực hiện như sau:
Thứ ba: Lập biên bản hòa giải
Thư ký Tòa án sẽ tiến hành lập biên bản hòa giải.
Biên bản hòa giải sẽ có những nội dung chính như sau:
Biên bản phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia phiên họp, chữ ký của Thư ký ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiền họp. Những người tham gia phiên họp có quyền được xem biên bản ngay khi kết thúc phiên họp, yêu cầu sửa đổi, bổ sung và biên bản và ký xác nhận hoặc điểm chỉ.
Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải.
Thứ tư: Ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp hòa giải thành
Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Thẩm phán sẽ chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
Trong trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 210 BLTTDS mà các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.
Như vậy, trường hợp hòa giải thành thì được xem như vụ án đã được giải quyết xong. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự sẽ có hiệu lực pháp luật ngay khi ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, và chỉ bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.
Trường hợp hòa giải không thành thì Tòa án tiến hành các thủ tục tiếp theo để giải quyết vụ án.
Trên đây là toàn bộ tư vấn của Luật Hùng Thắng về Thủ tục hòa giải trong vụ án dân sự. Chúng tôi luôn sẵn sàng tư vấn, hỗ trợ Quý khách hàng những thông tin cần thiết.
Vui lòng liên hệ CÔNG TY LUẬT HÙNG THẮNG nếu còn những vướng mắc, chưa rõ hoặc tư vấn pháp lý khác để được tư vấn cụ thể.